Tái Sinh Là Sự Thật Hiển Nhiên
Trần Tuấn Mẫn
1. Tổng quan:
Đã có nhiều bài viết của nhiều tác giả về tái sinh trong ý nghĩa nhân quả, nghiệp báo, luân hồi trong giáo lý Phật giáo, bài này chỉ nhằm chứng minh tái sinh là ý niệm của con người từ nhiều ngàn năm trước cho đến nay và những bằng chứng xác đáng về tái sinh đã thể hiện trong thực tế. Tất nhiên bài viết này cũng phải dựa vào những điểm cơ bản của nhân quả, luân hồi, nghiệp báo, tái sinh, đồng thời thêm vài lời về lợi ích của niềm tin vào tái sinh.
Tái sinh nghĩa là chết đi rồi sinh trở lại và mang một thân xác mới. Tại Ấn Độ, tái sinh được gọi là Punarjanmar (Sr.) hay Punabbhava (Pal.), người phương Tây gọi là Rebirth (Sinh trở lại) hay Reincarnation (Re: lại, trở lại, In: nhập vào, Carnation: thịt, thân xác), gốc Latin là Reincarnatio.
Theo Phật giáo, nguyên lý nhân quả, nghiệp báo, luân hồi đưa đến sự tái sinh, và cứ tiếp tụcmãi khiến một chúng sinh chưa thành Đại giác ngộ, phải mãi mãi ở trong vòng sinh tử luân hồi. Tái sinh là mang một thân xác mới sau khi chết. Thân xác này là của chúng sinh ấy nhưng cũng không hẳn như thế vì nó còn bị ảnh hưởng bởi những nghiệp báo trong đờisống vừa qua, nhiều đời sống trước đó và hoàn cảnh của môi trường sống hiện tại. Vậy mọi chúng sinh vừa là chính họ vừa không phải chính họ, nghĩa là họ không chết mà chỉ thay đổi hình thức sống. Ví như một ngọn lửa của một cây đèn cầy được châm từ một que diêm. Lửa ấy là của que diêm nhưng cũng là của cây đèn cầy. Ngọn lửa mới không phải ngọn lửa cũ của que diêm nhưng cũng từ ngọn lửa của que diêm mà có.
Nhìn vào cuộc sống, ta thấy thứ gì cũng mang ý nghĩa tái sinh: sinh vât chết đi, thân xác tan rã, hòa vào đất, vào nước, không khí, rồi các hạt mầm, các vi khuẩn, côn trùng sinh trưởng… Sự sống không mất đi, chỉ là sự luân chuyển hình thái, kiểu như một vòng tròn mà ta có thể gọi là luân hồi, tái sinh.
2. Niềm tin vào sự tái sinh:
Sự thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ, người thân đã mất hay vừa mất…không phải chỉ để tưởng nhớ mà còn phản ánh niềm tin rằng các vị đã mất đã tái sinh vào một nơi, một cảnh giới nào đó, có thể nhận phần nào đó những lời cầu chúc và phẩm vật cúng dường. Nét văn hóa này rất phổ biến ở khắp nơi, nhất là nước ở châu Á và rất đáng được giữ gìn.
Cách đây hơn 4 ngàn năm, các bộ Rigveda (Phệ-đà) và Upanishads (Áo nghĩa thư hay Vedanta) của Ấ Độ cổ đại, đề cập đến ngã (cái Tôi), linh hồn và tái sinh, sau đó là lý thuyếtcủa Ấn Độ giáo (Hinduism), Phật giáo (Bhuddism), Hồi giáo (Muslim), Sikh giáo (Sikh)… Tại Hy Lạp cổ đại, Pythagoras (thế kỷ 6 tr. TL), Plato (thế kỷ 6 tr. TL) Socrates (thế kỷ 5 tr. TL), nhất là Pythagoras, đã tin vào linh hồn bất tử, vào sự tái sinh, và quyết định ăn chay để không giết hại loài vật… Trong thời hiện đại, nhiều triết gia phương Tây đã ủng hộ lý thuyếttái sinh: Shopenhauer, Henri David Thoreau, Walt Whitman… cũng tin rằng linh hồn là bất tử, tái sinh có thật…
Đặc biệt, trong Phúc Âm Marco, chương 8, các câu 27, 28 có ghi:
Thế rồi Chúa Giê-su (Jesus) và các môn đệ của Ngài rời các làng mạc ở Caesarea Philippi. Dọc đường, Ngài hỏi các môn đồ: “Người dân bảo Ta là ai?” Các môn đồ đáp: “Họ bảo Ngài là John Baptist, lại có những người bảo Ngài là Tiên tri Elisa, lại còn có những người bảo Ngài là một trong những vị Tiên tri.” Thế rồi Chúa Jesus hỏi: “Thế các ông bảo Ta là ai?” Thánh Peter đáp: “Ngài là Thiên chúa.”
Tiên tri Elisa sống vào khoảng 1,000 năm tr. TL. tức là trước Đức Jesus khoảng 1,000 năm, John Baptist sinh trước Chúa 47 năm và mất vào năm 07 TL, là người đã thông báo sự ra đời của Đức Jesus. Sự kiện này khiến ta có thể kết luận rằng ý niệm tái sinh đã tồn tại ở Trung Đông từ hơn 2,000 năm trước và hẳn là ở nhiều quốc gia, lãnh thổ khác trên thế giới. Hơn nữa, ta lại không thấy Đức Jesus phê phán gì về các nhận định mang ý nghĩa tái sinhtrong đoạn trích trên.
3. Những bằng chứng về sự tái sinh:
Rất nhiều trường hợp tái sinh được công bố, luôn luôn là của những đứa trẻ. Chúng nhớ đền kiếp vừa qua đã sinh sống ở đâu, cha mẹ là ai, cuôc sống thế nào…Sự việc này đã được kiểm chứng là thật, các cơ quan truyền thông đã đăng tải đầy đủ tin tức. Những chuyện đã xảy ra như thế thật nhiều, không thể kể hết được. Những trường hợp tái sinh của các Lạt-ma ở Tây Tạng thì chúng ta không bàn ở đây vì hoàn cảnh, luật lệ bản quốc không thuận tiện cho các khảo chứng. Sau đây là một số trường hợp được các học giả, các chuyên gia uy tín đã khảo sát, nghiên cứu, đã tập hợp hàng ngàn trường hợp tái sinh và công bốrộng rãi.
Đáng kể nhất là các công trình nghiên cứu suốt 40 năm của Bác sĩ Ian Stevenson (1/10/2018 - 8/2/2007). Ông là một Giáo sư Tâm phân học, Chủ nhiệm Khoa Tâm thần học thuộc Đại học Virginia, là Giám đốc khoa Nghiên cứu Trẻ em Nhớ lại Đời trước của chúng với hơn 3,000 trường hợp trên toàn thế giới. Ngoài các bài thuyết trình tại các hội nghị, diễn giảng, các bài báo…, ông đã cho xuất bản nhiều sách: Twenty Cases Suggestive of the Reincarnations (20 Trường hợp Liên hệ đến Tái sinh, 1974), Children Who Remember Previous Lives Những Trẻ em Nhớ lại các Kiếp trước, 1987), Where Reincarnation and Biology Intersect (Sự Gặp gỡ của Tái sinh và Sinh học, 1997).
Ngoài những công bố vừa nêu, ta còn có thể kể các công trình sau đây: Old Souls (Những Linh hồn Cũ) của Thomas Shroder, Life Before Life (Tiền Kiếp) của Jim B. Tucker, Children Past Lives (Các Đời sống Quá khứ của Trẻ em) của Carol Bowman, Other Lives, Other Selves (Những Đời sống Khác, Những cái Tôi Khác) của Roger J.Woolger, Ordered to Return (Được Điều động để Trở lại) của George G. Ritchie…Tất cả đều dẫn chứng và công nhận tái sinh là có thật.
Dĩ nhiên trường hợp nhớ đến đời sổng trước kề cận đời đang sống của những đứa trẻ đặc biệt kia chỉ là một ngẫu nhiên hay một sự cố mà khoa học chưa thể khám phá nguyên nhân. Và dĩ nhiên đó không phải là kết quả tu tập của chúng. Ngoài sự nhớ lại đời sống trước đó, chúng chỉ là những đứa trẻ bình thường, không có gì đặc biệt so với những đứa trẻ khác. Chỉ riêng Đức Phật, với Túc mạng minh (trong Tam minh) mới có thể biết rõ suốt vô số đời sống mà Ngài đã tu hành, đã trải qua trước khi thành bậc Đại Giác. Ngoài ra, người ta còn có thể kể về vài vị tu hành chân chính, đạt trí tuệ cao vời, có thể nhớ đến vài đời quá khứcủa mình, nhưng sự việc này thường khó được kiểm chứng.
4. Lợi ích khi nhận rõ sự tái sinh:
Nhận rõ tái sinh là sự thật hiển nhiên, chúng ta được những lợi lạc sau đây:
Chúng ta không sợ chết, vì thật sự chúng ta không chết nhưng sẽ sống một đời sống mới mà chúng ta có thể chuẩn bị nhiều điều ngay trong đời sống hiện tại. Chúng ta có thể thực hành các thiện hạnh, tu tập để tạo nghiệp tốt cho các đời tái sinh của mình.
Chúng ta đối xử tốt, yêu thương, giúp đỡ mọi người, mọi sinh vật, kể cả côn trùng bé bỏng, kể cả những người không thân thiện với ta, ghét ta, hại ta… vì ta biết rằng trong vô số đời sống trước kia, họ và ta đã từng là thân thuộc, cha mẹ, vợ chồng, bạn bè, ân nhân của nhau.
Ta có thể nghĩ rằng mình đóng góp cho xã hội, đất nước và cho cả mọi chúng sinh một phần dù rất nhỏ, vô cùng nhỏ, về sự hiền hòa, tình yêu thương, hòa bình, an lạc cho mọi chúng sinh trên toàn thể hành tinh này.
Sự lạc quan này không phải là niềm tự hào mà chỉ là ước nguyện chân thành về cuộc đờicủa chính chúng ta và của mọi chúng sinh đang sống và sẽ tái sinh như chúng ta vậy.