
Về 6 bản kinh này, có vài điểm đáng lưu ý.
Thứ nhất là trong Đại Chánh tạng hiện có một bản dịch trùng tên với bản dịch thứ nhất, Phật thuyết Pháp hoa tam-muội kinh (佛說法華三昧經). Bản dịch này chỉ có một quyển, do Trí Nghiêm dịch vào đời Tống, nội dung hoàn toàn khác với kinh Pháp hoa.[11] Tuy nhiên, giáo sư Nguyễn Lang trong sách Việt Nam Phật giáo sử luận, khi viết về Chi-cương-lương-tiếp đã nhầm lẫn nên trích dẫn một bài kệ từ kinh này nhưng lại cho là ở trong bản dịch của Chi-cương-lương-tiếp. Bài kệ trích dẫn gồm 8 câu như sau:
Trong pháp thân có tất cả các pháp,
tất cả đều huyễn hóa biến hiện khi nổi khi chìm
các pháp phiền não như dâm, nộ và si thực ra đều vô hình vô thể
cũng như các bọt bèo hiện trên mặt nước
nên quan sát thân ta và mọi hiện tượng
như an trú nơi tịnh diệt vô hình
Chúng được thành lập do sự hội hợp và ly tan
nếu phân biệt kỹ lưỡng, thì sẽ thấy rõ bản tính của chúng là không”.[12]
Nguyên tác Hán văn những câu này là:
法身有一切,
化幻現沈浮
婬怒癡無形,
如水現泡沫。
Pháp thân hữu nhất thiết,
Hóa huyễn hiện trầm phù,
Dâm nộ si vô hình,
Như thủy hiện bào mạt.
觀察人身物,
如滅無形住 ,
離散合自成,
分別 計皆空。
Quán sát nhân thân vật,
Như diệt vô hình trụ.
Ly tán hợp tự thành,
Phân biệt kế giai không.
Như vậy, bài kệ này có nguồn gốc rõ rệt, nằm trong một bản kinh hiện nay vẫn còn trong Đại Chánh tạng.[13] Sai lầm này rất khó hiểu vì ngay trước đó giáo sư cho biết: “Bản dịch kinhPháp Hoa Tam Muội đã mất vào trước 730.” Nhưng dù trích dẫn một bộ kinh đã mất, Giáo sư lại không cho biết đã trích dẫn từ đâu. Và khó hiểu hơn nữa là Giáo sư lại dựa vào nội dung trích dẫn sai lầm này để đưa đến một câu kết luận mang tính xác quyết: “Như thế Chi Cương Lương Tiếp cũng thuộc hệ phái Phật Giáo đại thừa và cũng có khuynh hướng Thiền học.”[14]
Theo những gì chúng tôi đã trích dẫn trên thì kinh Pháp hoa tam-muội do Trí Nghiêm dịch không liên quan gì đến kinh Pháp hoa, cũng không liên quan gì đến ngài Chi-cương-lương-tiếp, nên không thể phán xét về vị này theo cách như vậy.
Điểm đáng lưu ý thứ hai là trong Đại Chánh tạng hiện có một bản kinh tên Tát-đàm Phân-đà-lợi,[15] 1 quyển, dịch vào đời Tây Tấn, mất tên người dịch. So sánh với tên bản kinh thứ hai là Tát-vân Phân-đà-lợi thì có vẻ như cả hai đều được phiên âm từ tên Phạn ngữlà Saddharma-puṇḍarīka, cũng chính là tên kinh Pháp hoa. Ngoài ra, trong tên kinh Tát-vân Phân-đà-lợi (薩芸芬陀梨法華經), chữ vân (芸) cũng có một cách viết là 雲, rất gần với chữ 曇 (đàm), nên có thể trong việc sao chép đã có sự nhầm lẫn giữa tát-đàm (薩曇) và tát-vân (薩雲), để chỉ cùng một bộ kinh. Hơn nữa, nội dung bản kinh này lại tương tự như phẩm Đề-bà-đạt-đa trong kinh Pháp hoa, do vậy rất đáng ngờ rằng đây là một phần còn sót lại của kinh Tát-vân Phân-đà-lợi (6 quyển). Tuy nhiên, suy đoán này cần được kiểm chứng thêm.
Nói tóm lại, từ năm 256 đến năm 601, trong khoảng 350 năm, chúng ta được biết là đã có 6 bản dịch kinh Pháp Hoa sang Hán ngữ lần lượt ra đời. Đến nay đã mất đi 3 bản, còn lại 3 bản, đều được thu thập vào Đại Chánh tạng ở Tập 9, các kinh số 262, 263 và 264.
2. Các bản giảng luận kinh Pháp hoa Kinh Pháp hoa là bộ kinh có sức ảnh hưởng rất sâu rộng. Do vậy, trải qua lịch sử truyền thừa đã có rất nhiều bản văn giảng luận ra đời, cũng như nhiều bậc thầy đã trực tiếp giảng giải kinh này.
Bản giảng luận đầu tiên phải kể đến là luận giải của Bồ Tát Thế Thân[16] soạn bằng Phạn ngữ. Ngài Thế Thân viên tịch năm 396 nên niên đại của luận giải này không thể muộn hơn. Nguyên bản Phạn ngữ đã mất hẳn, hiện chỉ còn hai bản Hán dịch là Diệu pháp liên hoa kinhƯu-ba-đề-xá[17] và Diệu pháp liên hoa kinh luận Ưu-ba-đề-xá.[18] Khi so sánh văn bản, tuy bản thứ nhất được chia thành hai quyển, bản thứ hai chỉ có một quyển, nhưng dung lượnggần như tương đương nhau. Nội dung cũng tương đồng, chỉ khác biệt về cách diễn đạt. Do vậy, có thể sử dụng cả hai bản dịch này để bổ sung cho nhau.
Bản luận này giải thích khá kỹ các phẩm đầu tiên như phẩm Tựa, phẩm Phương tiện, phẩm Thí dụ... Các phẩm về sau được giải thích theo cách nêu ý đại lược, không giảng giải chi tiết. So sánh theo cấu trúc thì có vẻ như bản kinh văn được sử dụng cho luận giải này khá tương tự với bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập. Điều này góp phần củng cố suy đoán rằng Phạn bản của ngài Cưu-ma-la-thập tuy được chuyển dịch về sau nhưng gần với Phạn bản ban đầu hơn bản được sử dụng bởi ngài Pháp Hộ.
Về giảng luận của các bậc thầy Trung Hoa, nổi bật nhất có Pháp hoa tam đại bộ (法華三大部) của Đại sư Trí Khải, được xem là người khai sáng tông Thiên Thai.[19] Bộ sách này được dùng như giáo thuyết chính yếu của tông Thiên Thai, cũng gọi là Thiên Thai tam đại bộ(天台三大部). Các sách này không do Đại sư Trí Khải trực tiếp biên soạn, mà do học trò là Quán Đảnh (灌頂) thu thập và ghi chép lại những lời giảng của ngài, bao gồm:
- Diệu pháp liên hoa kinh huyền nghĩa (妙法蓮華經玄義), 20 quyển.[20]
- Diệu pháp liên hoa kinh văn cú (妙法蓮華經文句), 10 quyển.[21]
- Ma-ha chỉ quán (摩訶止觀), 10 quyển.[22]
Trong Tam đại bộ vừa kể trên, Diệu pháp liên hoa kinh huyền nghĩa giảng sâu vào đề kinh và giáo tướng, nêu rõ những ý nghĩa huyền diệu của kinh Pháp hoa. Diệu pháp liên hoa kinh văn cú, cũng gọi là Pháp hoa văn cú, giảng giải sát từng đoạn kinh văn theo bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập. Những nội dung giảng giải này được diễn đạt vô cùng súc tích, đối với những ai chưa có nền tảng Phật học sâu xa thì rất khó nhận hiểu. Do vậy, ngài Trạm Nhiên(711-782) vào đời Đường đã biên soạn sách Pháp hoa văn cú ký (法華文句記)[23] để giảng rộng thêm ý nghĩa của Pháp hoa văn cú. Cuối cùng, Ma-ha chỉ quán là bộ sách giảng về pháp quán tâm theo kinh Pháp hoa. Tông Thiên Thai lấy kinh Pháp hoa làm tông chỉ và xem những bộ sách này là quan trọng nhất.
Ngoài ra, các bậc thầy Trung Hoa cũng biên soạn rất nhiều bản văn giảng giải khác, dưới đây chỉ kể ra một số bản văn tiêu biểu được nhiều người biết đến:
- Diệu pháp liên hoa kinh sớ (妙法蓮花經疏), 2 quyển, Trúc Đạo Sinh (355-434) soạn.[24]
- Pháp hoa nghĩa sớ (法華義疏), 12 quyển, Cát Tạng (549-623) soạn.[25]
- Pháp hoa kinh nghĩa ký (法華經義記), 8 quyển, Pháp Vân (467-529) soạn.[26]
- Pháp hoa huyền nghĩa thích tiêm (法華玄義釋籤), 20 quyển, Trạm Nhiên soạn.[27]
3. Vấn đề Phạn bản và các bản dịch ở phương Tây
Sau khi kinh Pháp hoa được dịch sang Hán ngữ, các Phạn bản đã dùng để dịch đều thất lạc. Với thời gian trôi qua, việc tìm lại Phạn bản ngày càng thêm khó khăn. Trong thực tế, Phạn bản kinh này cũng không còn tại Ấn Độ.
Khoảng giữa thế kỷ 19, một người Anh là Brian Houghton Hodgson (1801-1894) đến làm việc ở Nepal. Ông là một trong những người châu Âu đầu tiên quan tâm đến các Phạn bản kinh điển Phật giáo. Hodgson đã sưu tầm được nhiều thủ bản bằng Phạn ngữ từ các tự việnở Nepal. Năm 1837, ông gửi một số các Phạn bản này cho Hội Á châu học Paris,[28] trong đó có Phạn bản kinh Pháp hoa (Saddharmapuṇḍarīka-sūtra).
Bản kinh này đã đến tay Eugène Burnouf (1801-1852), một người Pháp và là một trong những học giả tiên phong của ngành Ấn Độ học và Phật học tại châu Âu vào thời đó. Burnouf đã chuyển dịch bản Phạn ngữ sang tiếng Pháp với tên là Le Lotus de la Bonne Loi. Vào khoảng giữa năm 1852, ông quyết định xuất bản bản dịch này. Khi việc in ấn đã gần hoàn tất thì ông đột ngột qua đời vì một cơn bạo bệnh. Theo thông tin từ bản in năm 1852, Burnouf đã không kịp viết Lời nói đầu cho bản dịch như dự tính.[29]
Phạn bản do Hodgson sưu tầm được các nhà nghiên cứu đánh giá là một bản sao chép muộn, có thể vào khoảng thế kỷ 11-13. Kinh văn chép trên lá bối, có hư rách nhiều nơi nên Burnouf phải tự đối chiếu, suy đoán để khôi phục văn bản trong suốt quá trình dịch, và thực tế cũng có nhiều nơi không thể suy đoán chắc chắn. Tuy nhiên, đây dường như là Phạn bản sớm nhất của kinh Pháp hoa được biết đến và chuyển dịch để giới thiệu ở phương Tây.
Theo Haruaki Kotsuki, vào năm 1903 có một viên lãnh sự Nga là Nikolay F. Pe-trovsky (1837-1908) mua được một Phạn bản kinh Pháp Hoa tại Kashgar, được cho là đã phát hiện ở gần Khotan. Các Phạn bản này được ước đoán có niên đại sao chép vào khoảng thế kỷ 9-10, nhìn chung tuy bảo tồn được một phần kinh văn nhưng không đủ để khôi phục toàn văn. Các nhà nghiên cứu gọi đây là Phạn bản Trung Á. Phạn bản mà ngài Cưu-ma-la-thập đã sử dụng có nhiều khả năng thuộc nhóm Phạn bản này.[30]
Vào thập niên 1930, một số Phạn bản kinh Pháp hoa được phát hiện tại một địa điểm gần Gilgit ở Kashmir,[31] nhưng chỉ là một số phần rời rạc. Các Phạn bản này được ước đoánniên đại sao chép vào khoảng thế kỷ 7. Các Phạn bản này không đồng nhất, được phân thành các nhóm khác nhau và bị mất mát nhiều nên cũng không đủ để khôi phục bản kinh. Nhóm Phạn bản này được gọi là Phạn bản Gilgit.
Nhóm Phạn bản tìm được ở Nepal và nhóm Gilgit có vẻ gần gũi, tương đồng với nhau, trong khi nhóm Phạn bản Trung Á khác biệt khá nhiều. Các nhà nghiên cứu đã nỗ lực để tái tạo một bản hoàn thiện hơn từ các bản tìm được ở Nepal và Gilgit.[32] Kết quả tiên phong của những nỗ lực này là công trình của Hendrik Kern (1833-1917) và Bunyiu Nan-jio (1849-1927). Kern là người Hà Lan, giáo sư Phạn ngữ Đại học Leiden, trong khi Nanjio là một tăng sĩ, học giả người Nhật sang châu Âu học tập. Công trình được Imperial Academy of Sciences (Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia) xuất bản năm 1884 tại Nga. Đây là Phạn bản đầu tiên của kinh Pháp hoa được công bố trọn vẹn.
Như vậy, những hiểu biết về Phạn bản kinh Pháp hoa cho đến nay đã củng cố nhận địnhtrước đây về khác biệt giữa các Phạn bản được ngài Cưu-ma-la-thập và Pháp Hộ sử dụng, đồng thời cũng xác định bản được ngài Cưu-ma-la-thập sử dụng có khả năng là bản cổ xưa hơn, gần với nguyên bản hơn.
Cũng trong năm 1884, Hendrik Kern đã xuất bản kinh Pháp hoa dịch sang Anh ngữ dựa trênPhạn bản vừa thực hiện. Bản dịch Anh ngữ này được cho là có độ chuẩn xác cao hơn bản dịch Pháp ngữ của Burnouf nhờ dựa trên một Phạn bản hoàn thiện hơn. Đồng thời, trong quá trình chuyển dịch Kern cũng đã tham khảo bản dịch Pháp ngữ để tiếp thu những thành quả trước đó của Burnouf và nhìn ra những thiếu sót để điều chỉnh tốt hơn. Sau khi xuất bản năm 1884, bản dịch này được tái bản rất nhiều lần. Chỉ riêng nhà xuất bản Motilal Banarsidass tại Delhi, Ấn Độ đã tái bản vào các năm 1965, 1968, 1974 và 1980.[33]
Trong Lời nói đầu viết cho bản dịch của mình, Kern cũng bày tỏ sự quan tâm đặc biệt đến bản Hán dịch của ngài Cưu-ma-la-thập. Ông thừa nhận các khác biệt có thể là đại diện cho nhóm Phạn bản Trung Á so với nhóm Phạn bản Nepal-Gilgit, nhưng đồng thời cũng đặt nghi vấn về việc liệu điều này có phải do ngài Cưu-ma-la-thập vì muốn cho bản dịch rõ ràngmạch lạc mà đã không bám sát Phạn bản hay chăng?[34] Câu hỏi này sẽ không thể trả lờiđược trừ phi các nhà nghiên cứu có thể thành công trong những nỗ lực hiện nay để phục hồimột Phạn bản nguyên vẹn từ các phần rời rạc được tìm thấy ở Trung Á.
Dù vậy, với các bản dịch tiếng Anh và tiếng Pháp, cùng với Phạn bản đã được công bố, các học giả phương Tây đã có đủ điều kiện để tiến hành nhiều nghiên cứu tìm hiểu về kinh Pháp hoa. Các học giả, dịch giả phương Tây tiếp tục cho ra đời nhiều bản dịch tiếng Anh và tiếng Pháp. Tuy nhiên, cho đến nay hầu hết vẫn dựa trên những thành tựu ban đầu của Burnouf và Kern cùng với bản Hán dịch của ngài Cưu-ma-la-thập là chủ yếu. Do vậy, ngoài một số khám phá nhỏ được đưa ra trong mỗi công trình, chúng ta chưa thấy được những phát kiến mới mang tính đột biến.
Những hiểu biết về kinh Diệu pháp liên hoa cho đến hiện nay, thông qua các Phạn bản và bản dịch đã có, có thể nói chung là “đại đồng tiểu dị”. Tuy có một số khác biệt nhỏ giữa các nhà nghiên cứu cũng như giữa các bản dịch, nhưng về tổng thể thì ý nghĩa toàn bộ kinh văn vẫn có thể được nhận hiểu rất tương đồng.
4. Khảo sát một số vấn đề về kinh Pháp hoa
Trong số ba bản Hán dịch hiện còn của kinh Pháp hoa, bản Thiêm phẩm có một lời tựa không dài lắm nhưng cung cấp nhiều thông tin rất quý giá.[35] Lời tựa được viết vào niên hiệu Nhân Thọ nguyên niên (601), đời Tùy Văn Đế, gần 200 năm sau khi ngài Cưu-ma-la-thập dịch kinh Diệu pháp liên hoa, có thể xem là ghi chép khảo cứu sớm nhất về các bản dịch kinh Pháp hoa. Do vậy, việc khảo sát các bản dịch kinh Pháp hoa nên được bắt đầu từ các nhận xét được ghi lại trong lời tựa này.
Người viết lời tựa có vẻ như tham gia trong nhóm tổ chức công việc này và cũng tự mình làm công việc khảo cứu, so sánh các bản dịch, nhưng lại không ghi tên khi viết lời tựa. Lời tựa cho biết, sau khi khảo sát đã xác định được là Chánh pháp hoa và Diệu pháp liên hoadịch từ 2 Phạn bản khác nhau. Người viết cũng xác nhận chính mình đã đọc qua cả 2 Phạn bản, thấy rằng bản dịch Chánh pháp hoa tương ứng với Phạn bản chép trên lá đa-la, và bản dịch Diệu pháp liên hoa phù hợp với Phạn bản Quy Tư.
Phạn bản Quy Tư nghĩa là mang đến từ Quy Tư (龜茲). Tuy nhiên, Hòa thượng Thích Trí Quang trong Lời dẫn cho bản dịch của mình đặt nghi vấn “tài liệu này không nói rõ là Phạn văn lưu hành ở Quy Tư hay là văn tự Quy Tư”.[36] Hendrik Kern khi xử lý thông tin này thì nhận hiểu là “in the letters of Kwei-tsz” (bằng chữ viết của Quy Tư).[37] Tuy nhiên, điều này không đúng. Vì trong Tây vực ký, nước Quy Tư được gọi là nước Khuất-chi (屈支), và khi ngài Huyền Trang đi qua đây có xác nhận rằng nước này sử dụng Phạn ngữ,[38] không có chữ viết riêng.
Cũng theo lời tựa này, các bản dịch Chánh pháp hoa và Diệu pháp liên hoa đều có thiếu sótkhi so sánh với Phạn bản. Các phần thiếu sót được kể ra như sau:
- Chánh pháp hoa không có phần kệ trong phẩm Phổ môn.[39]
- Diệu pháp liên hoa thiếu nửa sau phẩm Dược thảo dụ; thiếu phần đầu của cả 2 phẩm Phú-lâu-na[40] và phẩm Pháp sư; thiếu phẩm Đề-bà-đạt-đa và phần kệ trong phẩm Phổ môn.
- Diệu pháp liên hoa dời phẩm Chúc lụy ra trước phẩm Dược Vương.[41]
- Cả 2 bản đều đặt phẩm Đà-la-ni sau phẩm Phổ môn.[42]
Với độ tuổi ra đời cách đây hơn 14 thế kỷ, những thông tin trong Lời tựa của Thiêm phẩm có giá trị xác chứng rất cao nhưng cũng làm phát sinh một số nghi vấn cần được khảo chứng thêm, như chúng tôi sẽ trình bày dưới đây:
Thứ nhất, việc Lời tựa này xác định ngay từ đầu rằng Chánh pháp hoa và Diệu pháp liên hoa đã sử dụng hai Phạn bản khác nhau là một xác chứng quan trọng. Điều này hoàn toàntương hợp với suy đoán của nhà nghiên cứu Haruaki Kotsuki như đã dẫn trong phần trước. Ngoài ra, H. Kern khi phục hồi Phạn bản Nepal-Gilgit cũng xác định rằng nhóm Phạn bản Trung Á có nhiều khác biệt và có thể cổ xưa hơn. Ông còn đi xa hơn khi suy đoán rằng nguyên bản trước đó nữa có thể chỉ dừng lại ở phẩm Chúc lụy và những phẩm từ đó về sau đã được thêm vào.[43] Tất nhiên, nhận xét này chỉ mang tính tham khảo.
Thứ hai, Lời tựa này không xác định trong các bản Phạn văn đã sử dụng thì bản nào có trước. Có thể hiểu là điều này ngoài khả năng của những người soạn Thiêm phẩm vào thời đó. Nhưng khi không có căn cứ về niên đại sớm muộn thì sự khác biệt có thể hiểu theo cả hai cách trái ngược nhau, vì bản của ngài Cưu-ma-la-thập có thể cho là thiếu nhưng ngược lại thì bản đối chiếu cũng có thể xem là thừa, do sự thêm thắt của người đời sau. Điều này chỉ có thể xác định khi biết chắc về niên đại của cả hai bản. Do vậy, những điểm mà Lời tựa nêu ra cho rằng “thiếu” thì cũng hoàn toàn có thể là do Phạn bản dùng để đối chiếu đã bị “thừa”.
Thứ ba, việc Lời tựa này cho rằng bản của ngài Cưu-ma-la-thập thiếu phẩm Đề-bà-đạt-đa gợi lên một số điểm nghi vấn. Sách Pháp hoa văn cú ghi lại nội dung trong quyển 8 giải thíchđiều này: “Vào thời ấy kinh này có 28 phẩm, vì cung nhân trong cung Trường An thỉnh riêng phẩm Đề-bà-đạt-đa này lưu giữ trong nội cung, nên khi lưu truyền đến Giang Đông chỉ còn 27 phẩm, không có phẩm này.”[44] Tuy nhiên, Pháp hoa văn cú cũng cho biết là phẩm kinh này sau đó đã tìm lại được và bổ sung vào như chúng ta thấy hiện nay, nghĩa là đủ 28 phẩm: “Đến đời Trần, thiền sư Nam Nhạc xếp phẩm này ngay sau phẩm Hiện tháp báu. Về sau, đối chiếu với kinh Chánh Pháp hoa thì hoàn toàn tương hợp. Ngày nay thiên hạ thống nhất, tìm lại được bản dịch cũ ở Trường An thấy sắp xếp đúng như vậy, nên mới biết 2 bậc thầy nói trên đều hiểu sâu ý kinh.”[45]
Như vậy, theo sách Pháp hoa văn cú thì bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập không bị thiếu phẩm Đề-bà-đạt-đa, mà đây là một sự cố bị thất lạc ngay sau khi dịch. Có lẽ chính vì điều này nên Diệu pháp liên hoa kinh sớ do Trúc Đạo Sinh, một đệ tử lớn của ngài Cưu-ma-la-thập biên soạn, đã liệt kê kinh Pháp hoa chỉ có 27 phẩm, thiếu phẩm Đề-bà-đạt-đa.[46] Tuy nhiên, như trên đã nói, khi sách Pháp hoa văn cú ra đời thì phẩm kinh này đã được đưa trở lại vào kinh Pháp hoa, và phần giảng giải của Pháp hoa văn cú có bao gồm phẩm này. Vậy câu hỏi đặt ra là, ai đã đưa phẩm Đề-bà-đạt-đa trở lại vào kinh Pháp hoa và vào lúc nào? Nếu là trước khi Thiêm phẩm viết Lời tựa (601), thì tại sao Lời tựa cho rằng thiếu phẩm này? Nếu là sau, thì tại sao nội dung phẩm này thêm vào trong bản Thiêm phẩm lại cũng chính xác là bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập, mà không phải là do hai vị Xà-na-quật-đa và Đạt-ma-cấp-đa dịch mới để thêm vào như phần kệ của phẩm Phổ môn?
Ở đây có thể suy đoán hai điều. Thứ nhất, nếu phẩm Đề-bà-đạt-đa đã được thêm vào kinh Diệu pháp liên hoa trước thời điểm viết Lời tựa của Thiêm phẩm, thì có thể những người soạn Thiêm phẩm vẫn chưa có được bản kinh đầy đủ đó, mà đang sử dụng một bản sao chép từ trước. Thứ hai, có thể những người soạn Thiêm phẩm đã có được phẩm Đề-bà-đạt-đa lúc đó lưu thông ở dạng biệt hành, nên mới sử dụng nội dung để đưa vào Thiêm phẩm. Do vậy, ngày nay chúng ta so sánh thấy rõ phần thêm vào Thiêm phẩm ở sau phẩm Hiện bảo tháp hoàn toàn là bản dịch phẩm Đề-bà-đạt-đa của ngài Cưu-ma-la-thập. Nếu suy đoánnày đúng thì Lời tựa của Thiêm phẩm đã thiếu sót khi không đề cập đến việc này.
Thứ tư, việc Thiêm phẩm cho rằng phẩm Phổ môn không có phần kệ trùng tụng là đúng, và việc chuyển dịch bổ sung phần kệ trùng tụng này cũng được ghi nhận trong các mục lục, rằng phần kệ này là bản dịch của hai vị Xà-na-quật-đa và Đạt-ma-cấp-đa. Tuy nhiên, việc không có phần này chưa hẳn là thiếu, vì so với cấu trúc của phẩm Diệu Âm Bồ Tát ngay trước đó cũng không có phần kệ tụng. Cho nên, rất có khả năng đây là cấu trúc ban đầutrong bản Phạn ngữ. Về sau, đã có người thêm phần kệ này vào bản Phạn ngữ và Thiêm phẩm căn cứ phần thêm vào để cho rằng bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập bị thiếu.
Thứ năm, việc Thiêm phẩm cho rằng bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập thiếu nửa sau của phẩm Dược thảo dụ cũng tương tự như đã nói trên. Rất có thể Thiêm phẩm đã dựa vào một Phạn bản bị thêm vào sau này. Thực tế khảo sát cho thấy phần thêm vào của Thiêm phẩmcó nội dung xa rời với tên phẩm này là Dược thảo dụ (Thí dụ cỏ thuốc), trong khi bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập dừng lại rất hợp lý. Đây cũng là một vấn đề tồn nghi cần tiếp tụcnghiên cứu thêm.
Thứ sáu, cũng là điểm quan trọng nhất, Thiêm phẩm cho rằng ngài Cưu-ma-la-thập đã “dời phẩm Chúc lụy ra trước phẩm Dược Vương”. Do vậy, trong Thiêm phẩm thì phẩm Chúc lụyđưa về đặt ở cuối bản kinh. Tuy nhiên, vấn đề vị trí của phẩm Chúc lụy có thể được nhìn nhận theo nhiều hướng khác nhau. Cụ thể là Pháp hoa văn cú ký đã dành khá nhiều nội dung để biện luận rằng vị trí phẩm Chúc lụy như trong bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập là hoàn toàn hợp lý. Chúng ta sẽ không đi sâu vào vấn đề này ở đây, nhưng lưu ý rằng đối với một vấn đề còn đang tranh luận thì nhận xét của Thiêm phẩm cần được xem xét lại.
Ngoài ra, sự khác biệt này cũng nên được nhìn từ góc độ văn bản học. Bản Phạn văn mà ngài Cưu-ma-la-thập sử dụng có nhiều khả năng đã cấu trúc các phẩm theo đúng như vậy, bởi nếu không có một nguyên do rõ rệt nào thì người dịch sẽ không cần thay đổi vị trí các phẩm kinh. Vì nhiều lý do khác nhau, có thể các bản Phạn văn về sau do sai lệch khi sao chép, hoặc do quá trình mất mát, tìm kiếm và lắp ghép, hoặc cũng có thể do một người sao chép nào đó đã dựa theo cách nhận hiểu riêng của mình mà thay đổi vị trí các phẩm kinh. Trong thực tế, ngoài phẩm Chúc lụy thì vị trí phẩm Đà-la-ni cũng có thay đổi và phẩm Đề-bà-đạt-đa bị xóa bỏ, ghép chung vào sau phẩm Hiện bảo tháp. Cũng từ nhận định này, có thể thấy rằng Phạn bản được gọi là bản Quy Tư mà những người soạn Thiêm phẩm dùng để đối chiếu chưa hẳn đã đúng là Phạn bản mà ngài Cưu-ma-la-thập đã sử dụng.
Do những điểm tồn nghi trong lời tựa của Thiêm phẩm như đã trình bày trên, độ tin cậy của bản soạn lại này dường như cũng không thể vượt qua bản dịch ban đầu của ngài Cưu-ma-la-thập.
Ngoài ra, còn có một điểm khác biệt quan trọng giữa bản dịch của Pháp Hộ với bản dịch của Cưu-ma-la-thập mà Thiêm phẩm không nhắc đến. Đó là trong phần mở đầu, Chánh pháphoa ghi nhận có 1.200 vị tỳ-kheo, trong khi bản Diệu pháp liên hoa ghi là 12.000 vị. Và mặc dù không nêu ra khác biệt này, Thiêm phẩm đã chọn cách giữ lại thông tin theo bản Diệu pháp liên hoa.
Sở dĩ chúng tôi xem đây là khác biệt quan trọng vì có thể tin chắc là ngài Cưu-ma-la-thập đã dịch đúng Phạn bản, và Thiêm phẩm sau khi đối chiếu lại với Phạn bản mà họ có, cũng tiếp tục thừa nhận con số này, tức là 12.000 vị.
Vì Chánh pháp hoa sử dụng một Phạn bản khác, nên chúng ta có thể tin rằng đây không phải là lỗi dịch thuật, mà là sự khác biệt giữa hai Phạn bản. Do vậy, để xác định con số nào là đúng, chúng ta cần xem xét ngay trong nội dung văn bản. Kết quả xem xét cho thấy con số 12.000 không tương hợp với tất cả những vị trí khác trong cùng bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập. Vì khi đề cập đến số lượng các vị A-la-hán thì kinh văn những nơi khác đều ghi là 1.200.
Trước hết, bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập ghi: “cùng với chúng đại tỳ-kheo 12.000 vị, hết thảy đều là bậc A-la-hán”.[47] Như vậy, câu này cho biết cả 12.000 vị “đều là bậc A-la-hán”.
Nhưng trong phẩm Phương tiện nói rằng: “Bấy giờ trong đại chúng có các vị Thanh văn đã chứng A-la-hán, dứt sạch lậu hoặc, giống như ngài A-nhã Kiều-trần-như... cả thảy 1.200 vị.”[48]
Tiếp theo, trong phẩm Thí dụ nói: “Trong số 1.200 vị đạt tâm tự tại ở đây, thuở xưa khi còn ở bậc hữu học…”[49]
Trong thực tế, sau khi rà soát trong toàn bộ kinh văn, chúng tôi tìm thấy có 6 vị trí nêu số lượng các vị A-la-hán và đều nói là 1.200 vị, trong khi đó không có bất kỳ nơi nào khác nhắc lại con số 12.000 như trong đoạn mở đầu. Do vậy, có phần chắc rằng con số này đã bị nhầm lẫn ngay từ trong Phạn bản được ngài Cưu-ma-la-thập sử dụng.
Tóm lại, bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập như được lưu hành hiện nay có khác biệt so với bản lưu hành ban đầu, do những nguyên do đã trình bày ở trên. Khác biệt thứ nhất là được thêm vào (hay trả lại) phẩm Đề-bà-đạt-đa như Pháp hoa văn cú đã giải thích rõ. Khác biệt thứ hai là có thêm phần kệ tụng sau phẩm Phổ môn, có lẽ được lấy từ Thiêm phẩm. Phần kệ tụng thêm vào này làm phong phú thêm cho bản dịch và không ảnh hưởng gì đến những tư tưởng chính được truyền tải trong kinh Pháp hoa.
5. Tư tưởng trong kinh Pháp hoa
Kinh Pháp hoa là bộ kinh được đức Phật thuyết giảng trong giai đoạn về sau, khi cơ duyêncủa thính chúng đã thuần thục. Do vậy, người Phật tử muốn tiếp nhận kinh Pháp hoa cũng cần có sự chuẩn bị học tập, hành trì thích hợp, không chỉ đơn thuần dựa vào việc đọc kinhmà có thể nhận hiểu trọn vẹn được ngay.
Theo hệ thống Ngũ thời bát giáo,[50] tông Thiên Thai xếp kinh Pháp hoa và kinh Đại Bát Niết-bàn vào đệ ngũ thời, tức là giáo pháp được thuyết giảng sau cùng và cũng là rốt ráonhất. Tuy vậy, cách trình bày tư tưởng rốt ráo của Pháp hoa và Đại Bát Niết-bàn không phải hoàn toàn giống nhau.
Trong kinh Pháp hoa, đức Phật dạy: “Chư Phật Thế Tôn chỉ vì duy nhất một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời.”[51]
Và đức Phật giải thích rõ: “Chư Phật Thế Tôn vì muốn giúp chúng sanh khai mở tri kiến Phậtđể được thanh tịnh nên xuất hiện ở đời; muốn chỉ bày cho chúng sanh thấy được tri kiến Phật nên xuất hiện ở đời; muốn khiến cho chúng sanh tỏ ngộ tri kiến Phật nên xuất hiện ở đời; muốn giúp cho chúng sanh thể nhập đạo tri kiến Phật nên xuất hiện ở đời.”[52]
Như vậy, ở đây đề cập đến “tri kiến Phật” tức là sự thấy biết rốt ráo, là trí tuệ vô thượng; cho nên “thể nhập tri kiến Phật” cũng tức là thành Phật. Hay nói ngắn gọn lại, lời dạy này nêu rõ, chư Phật ra đời chỉ vì một mục đích: dạy chúng sanh thành Phật.
Nhưng muốn thành Phật thì trước hết chúng sanh phải tự mình sẵn có khả năng thành Phật. Như người nông dân gieo hạt, trước hết tự thân hạt giống phải sẵn có khả năng nảy mầm. Nếu hạt giống không có khả năng nảy mầm, chẳng hạn như hạt giống hỏng, thì dù có chăm sóc tưới tẩm bao lâu đi nữa, hạt giống ấy cũng không thể mọc lên thành cây. Cũng vậy, chúng sanh phải tự mình sẵn có tiềm năng thì chư Phật ra đời mới có thể dạy chúng sanhthành Phật. Tiềm năng sẵn có để thành Phật được gọi là tánh Phật, và chính vì thế nên Phật dạy trong kinh Đại Bát Niết-bàn rằng “tất cả chúng sanh đều có tánh Phật”, và kinh Pháp hoatiếp tục khẳng định: “Tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật.”
Trong kinh Đại Bát Niết-bàn, đức Phật dạy: “Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật, nhưng vì phiền não che lấp nên không thấy được. Hàng Bồ Tát Thập trụ tuy thấy được pháp cao trổi nhất là tánh Phật, nhưng không biết được Như Lai là pháp thường trụ. Vì vậy nên nói rằng: ‘Hàng Bồ Tát Thập trụ tuy thấy tánh Phật nhưng không thật rõ ràng.’”[53]
Trong kinh Pháp hoa, đức Phật dạy:
“Thậm chí trẻ chơi đùa,
Vun cát làm tháp Phật...
Những trường hợp như thế,
Đều đã thành Phật đạo.”[54]
Lời dạy về tánh Phật trong cả hai kinh đều đúng thật, nhưng với cách trình bày trong kinh Đại Bát Niết-bàn như trên, chúng ta thấy rõ là hướng đến hàng căn cơ nhanh nhạy, vượt trội. Cho đến Bồ Tát Thập trụ mà còn “thấy tánh Phật không thật rõ ràng” thì hạng phàm phucăn cơ thấp kém làm sao có cơ hội được khuyến khích? Trong khi đó, kinh Pháp hoa mở rộng phạm vi đề cập đến bất kỳ nhân lành tu tập nào, một khi đã được thực hiện đều sẽ là nhân dẫn đến việc chúng sanh thành Phật trong tương lai. Thậm chí, chỉ cần biểu lộ sự cung kính Phật bằng cách “niệm một tiếng nam-mô” thì cũng sẽ thành Phật đạo.[55]
Điểm đặc biệt của tư tưởng Pháp hoa chính là ở chỗ dung nhiếp được tất cả chúng sanhvào con đường “học làm Phật” mà chư Phật ra đời để chỉ dạy. Pháp hoa mô tả tiến trình tu tập từ một chúng sanh phàm phu đến quả Phật viên mãn như một con đường dài. Trên con đường đó, có những người tiến bước rất nhanh, có những người chậm chạp lê bước, thậm chí có cả những người thỉnh thoảng phải dừng lại, dậm chân tại chỗ; lại có những người đã đi được rất xa, có người chỉ vừa qua một đoạn ngắn, và cũng có cả những người chỉ mới rụt rè đi những bước đầu tiên, thậm chí có người còn loanh quanh nơi đầu đường quan sát, chưa thực sự bước lên đường.
Bằng cách mô tả như vậy, kinh Pháp hoa không bỏ sót bất kỳ một chúng sanh nào trong phạm vi giáo hóa của Phật, từ những hạng chúng sanh thấp kém tầm thường nhất cho đếnnhững người căn cơ nhanh nhạy, trí tuệ sáng suốt; từ những người chưa phát khởi niềm tinđối với Tam bảo, cho đến hàng Bồ Tát đã đạt giai vị không còn thối chuyển. Tất cả đều cần đến và đều được bình đẳng thọ nhận sự giáo hóa của Phật, không hề phân biệt, giống như cơn mưa lớn tưới đều cho hết thảy cây cỏ, không phân biệt chủng loại hay cao thấp, lớn nhỏ.[56]
Để hiểu rõ tính dung nhiếp của tư tưởng Pháp hoa, cũng cần biết rằng, trước khi Phật thuyếtkinh Pháp hoa thì một số kinh Đại thừa khác cũng đã nêu ra hạn chế của quả vị Thanh vănkhi so sánh với hàng Bồ Tát. Chẳng hạn như trong kinh Duy-ma-cật, những giới hạn của các vị Thanh văn được nêu ra rất rõ. Một số người còn cho rằng kinh Duy-ma-cật bài xích Tiểu thừa khi xem các vị Thanh văn chỉ là “mầm hư giống hỏng”, không thể thành Phật. Tuy nhiên, đây là một cách hiểu nhầm lẫn vì không xét kỹ văn kinh. Trong kinh Duy-ma-cật, ngài Ca-diếp nói với ngài Xá-lợi-phất: “Tại sao chúng ta lại đoạn tuyệt cội gốc của mình đối với Đại thừa, khiến tự mình như hạt giống hư hỏng?”[57] Như vậy, “mầm hư giống hỏng” không phải là lời Phật nói về Thanh văn, mà là lời tự trách của chính các vị. Điều này cũng lặp lại trong kinh Pháp hoa, khi ngài Xá-lợi-phất tự nói: “Chúng con thật đáng trách, sao tự xem thường mình?” Các vị tự trách vì đã không đủ tự tin vào khả năng thành Phật của chính mình, do vậy chỉ dám theo đuổi mục đích giải thoát phiền não của Tiểu thừa, vốn chưa phải là sự giải thoát rốt ráo, giống như người đi trên đường dài, tuy đã đi được xa nhưng thật sự vẫn chưa đến đích. Và đây cũng chính là vấn đề được đức Phật nêu ra và giải quyết rốt ráotrong kinh Pháp hoa.[58]
Về cách nhận hiểu rằng kinh Duy-ma-cật phê phán, bài xích Tiểu thừa, có thể nhắc đến nhận xét của thầy Nhất Hạnh khi giảng kinh Pháp hoa: “Kinh Duy Ma Cật và những kinh Đại Thừa xuất hiện trước đó, đã dùng những quả trọng pháo rất lớn để bắn vào hàng ngũ của những người Thanh văn. Ngược lại, kinh Pháp Hoa là kinh Đại Thừa đầu tiên sử dụng ngôn từ hòa ái, chấp nhận mọi bộ phái và mọi khuynh hướng ở trong đạo Bụt.”[59]
Trong thực tế, tất cả kinh điển mà đức Phật truyền dạy đều sử dụng ngôn từ hòa ái, không có chuyện ngược lại, càng không thể có việc “dùng những quả trọng pháo rất lớn để bắn vào hàng ngũ của những người Thanh văn”. Cách diễn giải này dễ đưa đến sự hiểu lầm rằng các giáo pháp của đức Phật có sự xung đột, mâu thuẫn nhau. Bởi thật ra thì mọi sự so sánhphân biệt để chỉ ra những hạn chế của hàng Thanh văn đều không nhằm phê phán, chỉ trích, mà chỉ là để khuyến khích hướng đến mục đích cuối cùng là quả Phật. Cho nên, đó hoàn toàn không phải là “sự tấn công” vào “những người Thanh văn”, mà nên hiểu là sự chỉ bày chân thật rốt ráo của đức Phật để đưa tất cả chúng sanh đạt đến quả vị Phật. Trong kinh Pháp hoa, mục đích này cuối cùng đã đạt được qua việc đức Phật thụ ký cho tất cả các vị Thanh văn đều sẽ thành Phật. Do vậy, dù là trong kinh Duy-ma-cật hay bất kỳ kinh Đại thừanào khác thì việc chỉ rõ sự chưa rốt ráo của hàng Thanh văn cũng đều là cần thiết và mang tính chỉ bày, khích lệ, hoàn toàn không phải là sự công kích, phỉ báng như trong nhận xétsau đây:
“Trong kinh Duy-Ma-Cật, cái địa vị của Thầy Xá Lợi Phất tồi tệ bao nhiêu thì trong kinh Pháp Hoa cái địa vị của Thầy nó quan trọng bấy nhiêu. Trong Duy-Ma-Cật, đối tượng đó là để nhục mạ, trong kinh Pháp Hoa đối tượng đó là để mà săn sóc, thương yêu, để mà đầu tư giáo pháp vào trong tương lai.”[60]
Kinh Pháp hoa mang đến cho người học Phật một cái nhìn bao quát, một cách nhận hiểu đúng đắn và toàn diện về giáo pháp của đức Phật cũng như tiến trình tu tập. Do vậy, sau khi học kinh Pháp hoa, chúng ta sẽ có một cái nhìn cởi mở và đúng thật hơn đối với những kinh điển khác. Dưới ánh sáng soi rọi của Pháp hoa, chúng ta hiểu được rằng tất cả mọi giáo pháp của đức Phật đều cùng hướng đến một mục đích duy nhất là chỉ bày cho chúng sanhcon đường đạt đến sự giải thoát rốt ráo, thành tựu quả Phật viên mãn. Điều khác biệt ở đây là, kinh Pháp hoa mở rộng phạm vi giáo hóa đến tất cả mọi tầng lớp, mọi khả năng, từ kém cỏi nhất cho đến thông minh sáng suốt nhất. Trong khi đó, kinh Duy-ma-cật hướng đến một nhóm thính chúng có chọn lọc, không phải dành cho tất cả mọi tầng bậc. Do vậy, từ góc độ phàm phu chúng ta sẽ thấy có vẻ như các vị A-la-hán đang bị “nhục mạ” bằng cách phơi bày chỗ thấp kém của họ, nhưng đối với chính bản thân các vị ấy thì thật ra là họ đang được khai mở để nhìn thấy rõ hơn cảnh giới của hàng Bồ Tát, và xa hơn nữa là biết rằng mình cần phải tiếp tục tu tập cho đến khi thành tựu quả Phật viên mãn.
Xét kỹ về điểm này chúng ta mới có thể nhận hiểu và thấy rõ được tính bao quát và trọn vẹncủa tư tưởng trong kinh Pháp hoa.
Nói rằng tư tưởng của Pháp hoa là bao quát, bởi vì Pháp hoa hướng đến mọi đối tượng giáohóa, không loại bỏ bất kỳ tầng lớp nào. Pháp hoa nêu ra “bốn hạng đệ tử có niềm tin”[61] thì trong số đó hầu như hết thảy chúng sanh đều có thể dự phần. Hạng thứ nhất được xác định là những người chỉ cần nghe kinh và phát khởi niềm tin, tương đương với hạng thứ nhất trong năm hạng pháp sư. Năm hạng pháp sư lần lượt chỉ đến những người (1) có thể tin nhận thọ trì kinh, (2) đọc kinh, (3) tụng kinh, (4) sao chép truyền rộng kinh và (5) vì người khác giảng giải kinh. Như vậy, việc phát khởi niềm tin là bước khởi đầu, và điều này không đòi hỏi phải là người có căn cơ vượt trội hay trí tuệ sáng suốt. Thậm chí trong kinh còn đưa ra hình ảnh Bồ Tát Thường Bất Khinh là một tiền thân của đức Phật Thích-ca nhưng chỉ là một vị tỳ-kheo rất bình thường, thậm chí là tầm thường, vì kinh nói rằng “vị tỳ-kheo này không chuyên tụng đọc kinh điển, chỉ thực hành việc lễ bái”.

Về 6 bản kinh này, có vài điểm đáng lưu ý.
Thứ nhất là trong Đại Chánh tạng hiện có một bản dịch trùng tên với bản dịch thứ nhất, Phật thuyết Pháp hoa tam-muội kinh (佛說法華三昧經). Bản dịch này chỉ có một quyển, do Trí Nghiêm dịch vào đời Tống, nội dung hoàn toàn khác với kinh Pháp hoa.[11] Tuy nhiên, giáo sư Nguyễn Lang trong sách Việt Nam Phật giáo sử luận, khi viết về Chi-cương-lương-tiếp đã nhầm lẫn nên trích dẫn một bài kệ từ kinh này nhưng lại cho là ở trong bản dịch của Chi-cương-lương-tiếp. Bài kệ trích dẫn gồm 8 câu như sau:
Trong pháp thân có tất cả các pháp,
tất cả đều huyễn hóa biến hiện khi nổi khi chìm
các pháp phiền não như dâm, nộ và si thực ra đều vô hình vô thể
cũng như các bọt bèo hiện trên mặt nước
nên quan sát thân ta và mọi hiện tượng
như an trú nơi tịnh diệt vô hình
Chúng được thành lập do sự hội hợp và ly tan
nếu phân biệt kỹ lưỡng, thì sẽ thấy rõ bản tính của chúng là không”.[12]
Nguyên tác Hán văn những câu này là:
法身有一切,
化幻現沈浮
婬怒癡無形,
如水現泡沫。
Pháp thân hữu nhất thiết,
Hóa huyễn hiện trầm phù,
Dâm nộ si vô hình,
Như thủy hiện bào mạt.
觀察人身物,
如滅無形住 ,
離散合自成,
分別 計皆空。
Quán sát nhân thân vật,
Như diệt vô hình trụ.
Ly tán hợp tự thành,
Phân biệt kế giai không.
Như vậy, bài kệ này có nguồn gốc rõ rệt, nằm trong một bản kinh hiện nay vẫn còn trong Đại Chánh tạng.[13] Sai lầm này rất khó hiểu vì ngay trước đó giáo sư cho biết: “Bản dịch kinhPháp Hoa Tam Muội đã mất vào trước 730.” Nhưng dù trích dẫn một bộ kinh đã mất, Giáo sư lại không cho biết đã trích dẫn từ đâu. Và khó hiểu hơn nữa là Giáo sư lại dựa vào nội dung trích dẫn sai lầm này để đưa đến một câu kết luận mang tính xác quyết: “Như thế Chi Cương Lương Tiếp cũng thuộc hệ phái Phật Giáo đại thừa và cũng có khuynh hướng Thiền học.”[14]
Theo những gì chúng tôi đã trích dẫn trên thì kinh Pháp hoa tam-muội do Trí Nghiêm dịch không liên quan gì đến kinh Pháp hoa, cũng không liên quan gì đến ngài Chi-cương-lương-tiếp, nên không thể phán xét về vị này theo cách như vậy.
Điểm đáng lưu ý thứ hai là trong Đại Chánh tạng hiện có một bản kinh tên Tát-đàm Phân-đà-lợi,[15] 1 quyển, dịch vào đời Tây Tấn, mất tên người dịch. So sánh với tên bản kinh thứ hai là Tát-vân Phân-đà-lợi thì có vẻ như cả hai đều được phiên âm từ tên Phạn ngữlà Saddharma-puṇḍarīka, cũng chính là tên kinh Pháp hoa. Ngoài ra, trong tên kinh Tát-vân Phân-đà-lợi (薩芸芬陀梨法華經), chữ vân (芸) cũng có một cách viết là 雲, rất gần với chữ 曇 (đàm), nên có thể trong việc sao chép đã có sự nhầm lẫn giữa tát-đàm (薩曇) và tát-vân (薩雲), để chỉ cùng một bộ kinh. Hơn nữa, nội dung bản kinh này lại tương tự như phẩm Đề-bà-đạt-đa trong kinh Pháp hoa, do vậy rất đáng ngờ rằng đây là một phần còn sót lại của kinh Tát-vân Phân-đà-lợi (6 quyển). Tuy nhiên, suy đoán này cần được kiểm chứng thêm.
Nói tóm lại, từ năm 256 đến năm 601, trong khoảng 350 năm, chúng ta được biết là đã có 6 bản dịch kinh Pháp Hoa sang Hán ngữ lần lượt ra đời. Đến nay đã mất đi 3 bản, còn lại 3 bản, đều được thu thập vào Đại Chánh tạng ở Tập 9, các kinh số 262, 263 và 264.
2. Các bản giảng luận kinh Pháp hoa Kinh Pháp hoa là bộ kinh có sức ảnh hưởng rất sâu rộng. Do vậy, trải qua lịch sử truyền thừa đã có rất nhiều bản văn giảng luận ra đời, cũng như nhiều bậc thầy đã trực tiếp giảng giải kinh này.
Bản giảng luận đầu tiên phải kể đến là luận giải của Bồ Tát Thế Thân[16] soạn bằng Phạn ngữ. Ngài Thế Thân viên tịch năm 396 nên niên đại của luận giải này không thể muộn hơn. Nguyên bản Phạn ngữ đã mất hẳn, hiện chỉ còn hai bản Hán dịch là Diệu pháp liên hoa kinhƯu-ba-đề-xá[17] và Diệu pháp liên hoa kinh luận Ưu-ba-đề-xá.[18] Khi so sánh văn bản, tuy bản thứ nhất được chia thành hai quyển, bản thứ hai chỉ có một quyển, nhưng dung lượnggần như tương đương nhau. Nội dung cũng tương đồng, chỉ khác biệt về cách diễn đạt. Do vậy, có thể sử dụng cả hai bản dịch này để bổ sung cho nhau.
Bản luận này giải thích khá kỹ các phẩm đầu tiên như phẩm Tựa, phẩm Phương tiện, phẩm Thí dụ... Các phẩm về sau được giải thích theo cách nêu ý đại lược, không giảng giải chi tiết. So sánh theo cấu trúc thì có vẻ như bản kinh văn được sử dụng cho luận giải này khá tương tự với bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập. Điều này góp phần củng cố suy đoán rằng Phạn bản của ngài Cưu-ma-la-thập tuy được chuyển dịch về sau nhưng gần với Phạn bản ban đầu hơn bản được sử dụng bởi ngài Pháp Hộ.
Về giảng luận của các bậc thầy Trung Hoa, nổi bật nhất có Pháp hoa tam đại bộ (法華三大部) của Đại sư Trí Khải, được xem là người khai sáng tông Thiên Thai.[19] Bộ sách này được dùng như giáo thuyết chính yếu của tông Thiên Thai, cũng gọi là Thiên Thai tam đại bộ(天台三大部). Các sách này không do Đại sư Trí Khải trực tiếp biên soạn, mà do học trò là Quán Đảnh (灌頂) thu thập và ghi chép lại những lời giảng của ngài, bao gồm:
- Diệu pháp liên hoa kinh huyền nghĩa (妙法蓮華經玄義), 20 quyển.[20]
- Diệu pháp liên hoa kinh văn cú (妙法蓮華經文句), 10 quyển.[21]
- Ma-ha chỉ quán (摩訶止觀), 10 quyển.[22]
Trong Tam đại bộ vừa kể trên, Diệu pháp liên hoa kinh huyền nghĩa giảng sâu vào đề kinh và giáo tướng, nêu rõ những ý nghĩa huyền diệu của kinh Pháp hoa. Diệu pháp liên hoa kinh văn cú, cũng gọi là Pháp hoa văn cú, giảng giải sát từng đoạn kinh văn theo bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập. Những nội dung giảng giải này được diễn đạt vô cùng súc tích, đối với những ai chưa có nền tảng Phật học sâu xa thì rất khó nhận hiểu. Do vậy, ngài Trạm Nhiên(711-782) vào đời Đường đã biên soạn sách Pháp hoa văn cú ký (法華文句記)[23] để giảng rộng thêm ý nghĩa của Pháp hoa văn cú. Cuối cùng, Ma-ha chỉ quán là bộ sách giảng về pháp quán tâm theo kinh Pháp hoa. Tông Thiên Thai lấy kinh Pháp hoa làm tông chỉ và xem những bộ sách này là quan trọng nhất.
Ngoài ra, các bậc thầy Trung Hoa cũng biên soạn rất nhiều bản văn giảng giải khác, dưới đây chỉ kể ra một số bản văn tiêu biểu được nhiều người biết đến:
- Diệu pháp liên hoa kinh sớ (妙法蓮花經疏), 2 quyển, Trúc Đạo Sinh (355-434) soạn.[24]
- Pháp hoa nghĩa sớ (法華義疏), 12 quyển, Cát Tạng (549-623) soạn.[25]
- Pháp hoa kinh nghĩa ký (法華經義記), 8 quyển, Pháp Vân (467-529) soạn.[26]
- Pháp hoa huyền nghĩa thích tiêm (法華玄義釋籤), 20 quyển, Trạm Nhiên soạn.[27]
3. Vấn đề Phạn bản và các bản dịch ở phương Tây
Sau khi kinh Pháp hoa được dịch sang Hán ngữ, các Phạn bản đã dùng để dịch đều thất lạc. Với thời gian trôi qua, việc tìm lại Phạn bản ngày càng thêm khó khăn. Trong thực tế, Phạn bản kinh này cũng không còn tại Ấn Độ.
Khoảng giữa thế kỷ 19, một người Anh là Brian Houghton Hodgson (1801-1894) đến làm việc ở Nepal. Ông là một trong những người châu Âu đầu tiên quan tâm đến các Phạn bản kinh điển Phật giáo. Hodgson đã sưu tầm được nhiều thủ bản bằng Phạn ngữ từ các tự việnở Nepal. Năm 1837, ông gửi một số các Phạn bản này cho Hội Á châu học Paris,[28] trong đó có Phạn bản kinh Pháp hoa (Saddharmapuṇḍarīka-sūtra).
Bản kinh này đã đến tay Eugène Burnouf (1801-1852), một người Pháp và là một trong những học giả tiên phong của ngành Ấn Độ học và Phật học tại châu Âu vào thời đó. Burnouf đã chuyển dịch bản Phạn ngữ sang tiếng Pháp với tên là Le Lotus de la Bonne Loi. Vào khoảng giữa năm 1852, ông quyết định xuất bản bản dịch này. Khi việc in ấn đã gần hoàn tất thì ông đột ngột qua đời vì một cơn bạo bệnh. Theo thông tin từ bản in năm 1852, Burnouf đã không kịp viết Lời nói đầu cho bản dịch như dự tính.[29]
Phạn bản do Hodgson sưu tầm được các nhà nghiên cứu đánh giá là một bản sao chép muộn, có thể vào khoảng thế kỷ 11-13. Kinh văn chép trên lá bối, có hư rách nhiều nơi nên Burnouf phải tự đối chiếu, suy đoán để khôi phục văn bản trong suốt quá trình dịch, và thực tế cũng có nhiều nơi không thể suy đoán chắc chắn. Tuy nhiên, đây dường như là Phạn bản sớm nhất của kinh Pháp hoa được biết đến và chuyển dịch để giới thiệu ở phương Tây.
Theo Haruaki Kotsuki, vào năm 1903 có một viên lãnh sự Nga là Nikolay F. Pe-trovsky (1837-1908) mua được một Phạn bản kinh Pháp Hoa tại Kashgar, được cho là đã phát hiện ở gần Khotan. Các Phạn bản này được ước đoán có niên đại sao chép vào khoảng thế kỷ 9-10, nhìn chung tuy bảo tồn được một phần kinh văn nhưng không đủ để khôi phục toàn văn. Các nhà nghiên cứu gọi đây là Phạn bản Trung Á. Phạn bản mà ngài Cưu-ma-la-thập đã sử dụng có nhiều khả năng thuộc nhóm Phạn bản này.[30]
Vào thập niên 1930, một số Phạn bản kinh Pháp hoa được phát hiện tại một địa điểm gần Gilgit ở Kashmir,[31] nhưng chỉ là một số phần rời rạc. Các Phạn bản này được ước đoánniên đại sao chép vào khoảng thế kỷ 7. Các Phạn bản này không đồng nhất, được phân thành các nhóm khác nhau và bị mất mát nhiều nên cũng không đủ để khôi phục bản kinh. Nhóm Phạn bản này được gọi là Phạn bản Gilgit.
Nhóm Phạn bản tìm được ở Nepal và nhóm Gilgit có vẻ gần gũi, tương đồng với nhau, trong khi nhóm Phạn bản Trung Á khác biệt khá nhiều. Các nhà nghiên cứu đã nỗ lực để tái tạo một bản hoàn thiện hơn từ các bản tìm được ở Nepal và Gilgit.[32] Kết quả tiên phong của những nỗ lực này là công trình của Hendrik Kern (1833-1917) và Bunyiu Nan-jio (1849-1927). Kern là người Hà Lan, giáo sư Phạn ngữ Đại học Leiden, trong khi Nanjio là một tăng sĩ, học giả người Nhật sang châu Âu học tập. Công trình được Imperial Academy of Sciences (Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia) xuất bản năm 1884 tại Nga. Đây là Phạn bản đầu tiên của kinh Pháp hoa được công bố trọn vẹn.
Như vậy, những hiểu biết về Phạn bản kinh Pháp hoa cho đến nay đã củng cố nhận địnhtrước đây về khác biệt giữa các Phạn bản được ngài Cưu-ma-la-thập và Pháp Hộ sử dụng, đồng thời cũng xác định bản được ngài Cưu-ma-la-thập sử dụng có khả năng là bản cổ xưa hơn, gần với nguyên bản hơn.
Cũng trong năm 1884, Hendrik Kern đã xuất bản kinh Pháp hoa dịch sang Anh ngữ dựa trênPhạn bản vừa thực hiện. Bản dịch Anh ngữ này được cho là có độ chuẩn xác cao hơn bản dịch Pháp ngữ của Burnouf nhờ dựa trên một Phạn bản hoàn thiện hơn. Đồng thời, trong quá trình chuyển dịch Kern cũng đã tham khảo bản dịch Pháp ngữ để tiếp thu những thành quả trước đó của Burnouf và nhìn ra những thiếu sót để điều chỉnh tốt hơn. Sau khi xuất bản năm 1884, bản dịch này được tái bản rất nhiều lần. Chỉ riêng nhà xuất bản Motilal Banarsidass tại Delhi, Ấn Độ đã tái bản vào các năm 1965, 1968, 1974 và 1980.[33]
Trong Lời nói đầu viết cho bản dịch của mình, Kern cũng bày tỏ sự quan tâm đặc biệt đến bản Hán dịch của ngài Cưu-ma-la-thập. Ông thừa nhận các khác biệt có thể là đại diện cho nhóm Phạn bản Trung Á so với nhóm Phạn bản Nepal-Gilgit, nhưng đồng thời cũng đặt nghi vấn về việc liệu điều này có phải do ngài Cưu-ma-la-thập vì muốn cho bản dịch rõ ràngmạch lạc mà đã không bám sát Phạn bản hay chăng?[34] Câu hỏi này sẽ không thể trả lờiđược trừ phi các nhà nghiên cứu có thể thành công trong những nỗ lực hiện nay để phục hồimột Phạn bản nguyên vẹn từ các phần rời rạc được tìm thấy ở Trung Á.
Dù vậy, với các bản dịch tiếng Anh và tiếng Pháp, cùng với Phạn bản đã được công bố, các học giả phương Tây đã có đủ điều kiện để tiến hành nhiều nghiên cứu tìm hiểu về kinh Pháp hoa. Các học giả, dịch giả phương Tây tiếp tục cho ra đời nhiều bản dịch tiếng Anh và tiếng Pháp. Tuy nhiên, cho đến nay hầu hết vẫn dựa trên những thành tựu ban đầu của Burnouf và Kern cùng với bản Hán dịch của ngài Cưu-ma-la-thập là chủ yếu. Do vậy, ngoài một số khám phá nhỏ được đưa ra trong mỗi công trình, chúng ta chưa thấy được những phát kiến mới mang tính đột biến.
Những hiểu biết về kinh Diệu pháp liên hoa cho đến hiện nay, thông qua các Phạn bản và bản dịch đã có, có thể nói chung là “đại đồng tiểu dị”. Tuy có một số khác biệt nhỏ giữa các nhà nghiên cứu cũng như giữa các bản dịch, nhưng về tổng thể thì ý nghĩa toàn bộ kinh văn vẫn có thể được nhận hiểu rất tương đồng.
4. Khảo sát một số vấn đề về kinh Pháp hoa
Trong số ba bản Hán dịch hiện còn của kinh Pháp hoa, bản Thiêm phẩm có một lời tựa không dài lắm nhưng cung cấp nhiều thông tin rất quý giá.[35] Lời tựa được viết vào niên hiệu Nhân Thọ nguyên niên (601), đời Tùy Văn Đế, gần 200 năm sau khi ngài Cưu-ma-la-thập dịch kinh Diệu pháp liên hoa, có thể xem là ghi chép khảo cứu sớm nhất về các bản dịch kinh Pháp hoa. Do vậy, việc khảo sát các bản dịch kinh Pháp hoa nên được bắt đầu từ các nhận xét được ghi lại trong lời tựa này.
Người viết lời tựa có vẻ như tham gia trong nhóm tổ chức công việc này và cũng tự mình làm công việc khảo cứu, so sánh các bản dịch, nhưng lại không ghi tên khi viết lời tựa. Lời tựa cho biết, sau khi khảo sát đã xác định được là Chánh pháp hoa và Diệu pháp liên hoadịch từ 2 Phạn bản khác nhau. Người viết cũng xác nhận chính mình đã đọc qua cả 2 Phạn bản, thấy rằng bản dịch Chánh pháp hoa tương ứng với Phạn bản chép trên lá đa-la, và bản dịch Diệu pháp liên hoa phù hợp với Phạn bản Quy Tư.
Phạn bản Quy Tư nghĩa là mang đến từ Quy Tư (龜茲). Tuy nhiên, Hòa thượng Thích Trí Quang trong Lời dẫn cho bản dịch của mình đặt nghi vấn “tài liệu này không nói rõ là Phạn văn lưu hành ở Quy Tư hay là văn tự Quy Tư”.[36] Hendrik Kern khi xử lý thông tin này thì nhận hiểu là “in the letters of Kwei-tsz” (bằng chữ viết của Quy Tư).[37] Tuy nhiên, điều này không đúng. Vì trong Tây vực ký, nước Quy Tư được gọi là nước Khuất-chi (屈支), và khi ngài Huyền Trang đi qua đây có xác nhận rằng nước này sử dụng Phạn ngữ,[38] không có chữ viết riêng.
Cũng theo lời tựa này, các bản dịch Chánh pháp hoa và Diệu pháp liên hoa đều có thiếu sótkhi so sánh với Phạn bản. Các phần thiếu sót được kể ra như sau:
- Chánh pháp hoa không có phần kệ trong phẩm Phổ môn.[39]
- Diệu pháp liên hoa thiếu nửa sau phẩm Dược thảo dụ; thiếu phần đầu của cả 2 phẩm Phú-lâu-na[40] và phẩm Pháp sư; thiếu phẩm Đề-bà-đạt-đa và phần kệ trong phẩm Phổ môn.
- Diệu pháp liên hoa dời phẩm Chúc lụy ra trước phẩm Dược Vương.[41]
- Cả 2 bản đều đặt phẩm Đà-la-ni sau phẩm Phổ môn.[42]
Với độ tuổi ra đời cách đây hơn 14 thế kỷ, những thông tin trong Lời tựa của Thiêm phẩm có giá trị xác chứng rất cao nhưng cũng làm phát sinh một số nghi vấn cần được khảo chứng thêm, như chúng tôi sẽ trình bày dưới đây:
Thứ nhất, việc Lời tựa này xác định ngay từ đầu rằng Chánh pháp hoa và Diệu pháp liên hoa đã sử dụng hai Phạn bản khác nhau là một xác chứng quan trọng. Điều này hoàn toàntương hợp với suy đoán của nhà nghiên cứu Haruaki Kotsuki như đã dẫn trong phần trước. Ngoài ra, H. Kern khi phục hồi Phạn bản Nepal-Gilgit cũng xác định rằng nhóm Phạn bản Trung Á có nhiều khác biệt và có thể cổ xưa hơn. Ông còn đi xa hơn khi suy đoán rằng nguyên bản trước đó nữa có thể chỉ dừng lại ở phẩm Chúc lụy và những phẩm từ đó về sau đã được thêm vào.[43] Tất nhiên, nhận xét này chỉ mang tính tham khảo.
Thứ hai, Lời tựa này không xác định trong các bản Phạn văn đã sử dụng thì bản nào có trước. Có thể hiểu là điều này ngoài khả năng của những người soạn Thiêm phẩm vào thời đó. Nhưng khi không có căn cứ về niên đại sớm muộn thì sự khác biệt có thể hiểu theo cả hai cách trái ngược nhau, vì bản của ngài Cưu-ma-la-thập có thể cho là thiếu nhưng ngược lại thì bản đối chiếu cũng có thể xem là thừa, do sự thêm thắt của người đời sau. Điều này chỉ có thể xác định khi biết chắc về niên đại của cả hai bản. Do vậy, những điểm mà Lời tựa nêu ra cho rằng “thiếu” thì cũng hoàn toàn có thể là do Phạn bản dùng để đối chiếu đã bị “thừa”.
Thứ ba, việc Lời tựa này cho rằng bản của ngài Cưu-ma-la-thập thiếu phẩm Đề-bà-đạt-đa gợi lên một số điểm nghi vấn. Sách Pháp hoa văn cú ghi lại nội dung trong quyển 8 giải thíchđiều này: “Vào thời ấy kinh này có 28 phẩm, vì cung nhân trong cung Trường An thỉnh riêng phẩm Đề-bà-đạt-đa này lưu giữ trong nội cung, nên khi lưu truyền đến Giang Đông chỉ còn 27 phẩm, không có phẩm này.”[44] Tuy nhiên, Pháp hoa văn cú cũng cho biết là phẩm kinh này sau đó đã tìm lại được và bổ sung vào như chúng ta thấy hiện nay, nghĩa là đủ 28 phẩm: “Đến đời Trần, thiền sư Nam Nhạc xếp phẩm này ngay sau phẩm Hiện tháp báu. Về sau, đối chiếu với kinh Chánh Pháp hoa thì hoàn toàn tương hợp. Ngày nay thiên hạ thống nhất, tìm lại được bản dịch cũ ở Trường An thấy sắp xếp đúng như vậy, nên mới biết 2 bậc thầy nói trên đều hiểu sâu ý kinh.”[45]
Như vậy, theo sách Pháp hoa văn cú thì bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập không bị thiếu phẩm Đề-bà-đạt-đa, mà đây là một sự cố bị thất lạc ngay sau khi dịch. Có lẽ chính vì điều này nên Diệu pháp liên hoa kinh sớ do Trúc Đạo Sinh, một đệ tử lớn của ngài Cưu-ma-la-thập biên soạn, đã liệt kê kinh Pháp hoa chỉ có 27 phẩm, thiếu phẩm Đề-bà-đạt-đa.[46] Tuy nhiên, như trên đã nói, khi sách Pháp hoa văn cú ra đời thì phẩm kinh này đã được đưa trở lại vào kinh Pháp hoa, và phần giảng giải của Pháp hoa văn cú có bao gồm phẩm này. Vậy câu hỏi đặt ra là, ai đã đưa phẩm Đề-bà-đạt-đa trở lại vào kinh Pháp hoa và vào lúc nào? Nếu là trước khi Thiêm phẩm viết Lời tựa (601), thì tại sao Lời tựa cho rằng thiếu phẩm này? Nếu là sau, thì tại sao nội dung phẩm này thêm vào trong bản Thiêm phẩm lại cũng chính xác là bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập, mà không phải là do hai vị Xà-na-quật-đa và Đạt-ma-cấp-đa dịch mới để thêm vào như phần kệ của phẩm Phổ môn?
Ở đây có thể suy đoán hai điều. Thứ nhất, nếu phẩm Đề-bà-đạt-đa đã được thêm vào kinh Diệu pháp liên hoa trước thời điểm viết Lời tựa của Thiêm phẩm, thì có thể những người soạn Thiêm phẩm vẫn chưa có được bản kinh đầy đủ đó, mà đang sử dụng một bản sao chép từ trước. Thứ hai, có thể những người soạn Thiêm phẩm đã có được phẩm Đề-bà-đạt-đa lúc đó lưu thông ở dạng biệt hành, nên mới sử dụng nội dung để đưa vào Thiêm phẩm. Do vậy, ngày nay chúng ta so sánh thấy rõ phần thêm vào Thiêm phẩm ở sau phẩm Hiện bảo tháp hoàn toàn là bản dịch phẩm Đề-bà-đạt-đa của ngài Cưu-ma-la-thập. Nếu suy đoánnày đúng thì Lời tựa của Thiêm phẩm đã thiếu sót khi không đề cập đến việc này.
Thứ tư, việc Thiêm phẩm cho rằng phẩm Phổ môn không có phần kệ trùng tụng là đúng, và việc chuyển dịch bổ sung phần kệ trùng tụng này cũng được ghi nhận trong các mục lục, rằng phần kệ này là bản dịch của hai vị Xà-na-quật-đa và Đạt-ma-cấp-đa. Tuy nhiên, việc không có phần này chưa hẳn là thiếu, vì so với cấu trúc của phẩm Diệu Âm Bồ Tát ngay trước đó cũng không có phần kệ tụng. Cho nên, rất có khả năng đây là cấu trúc ban đầutrong bản Phạn ngữ. Về sau, đã có người thêm phần kệ này vào bản Phạn ngữ và Thiêm phẩm căn cứ phần thêm vào để cho rằng bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập bị thiếu.
Thứ năm, việc Thiêm phẩm cho rằng bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập thiếu nửa sau của phẩm Dược thảo dụ cũng tương tự như đã nói trên. Rất có thể Thiêm phẩm đã dựa vào một Phạn bản bị thêm vào sau này. Thực tế khảo sát cho thấy phần thêm vào của Thiêm phẩmcó nội dung xa rời với tên phẩm này là Dược thảo dụ (Thí dụ cỏ thuốc), trong khi bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập dừng lại rất hợp lý. Đây cũng là một vấn đề tồn nghi cần tiếp tụcnghiên cứu thêm.
Thứ sáu, cũng là điểm quan trọng nhất, Thiêm phẩm cho rằng ngài Cưu-ma-la-thập đã “dời phẩm Chúc lụy ra trước phẩm Dược Vương”. Do vậy, trong Thiêm phẩm thì phẩm Chúc lụyđưa về đặt ở cuối bản kinh. Tuy nhiên, vấn đề vị trí của phẩm Chúc lụy có thể được nhìn nhận theo nhiều hướng khác nhau. Cụ thể là Pháp hoa văn cú ký đã dành khá nhiều nội dung để biện luận rằng vị trí phẩm Chúc lụy như trong bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập là hoàn toàn hợp lý. Chúng ta sẽ không đi sâu vào vấn đề này ở đây, nhưng lưu ý rằng đối với một vấn đề còn đang tranh luận thì nhận xét của Thiêm phẩm cần được xem xét lại.
Ngoài ra, sự khác biệt này cũng nên được nhìn từ góc độ văn bản học. Bản Phạn văn mà ngài Cưu-ma-la-thập sử dụng có nhiều khả năng đã cấu trúc các phẩm theo đúng như vậy, bởi nếu không có một nguyên do rõ rệt nào thì người dịch sẽ không cần thay đổi vị trí các phẩm kinh. Vì nhiều lý do khác nhau, có thể các bản Phạn văn về sau do sai lệch khi sao chép, hoặc do quá trình mất mát, tìm kiếm và lắp ghép, hoặc cũng có thể do một người sao chép nào đó đã dựa theo cách nhận hiểu riêng của mình mà thay đổi vị trí các phẩm kinh. Trong thực tế, ngoài phẩm Chúc lụy thì vị trí phẩm Đà-la-ni cũng có thay đổi và phẩm Đề-bà-đạt-đa bị xóa bỏ, ghép chung vào sau phẩm Hiện bảo tháp. Cũng từ nhận định này, có thể thấy rằng Phạn bản được gọi là bản Quy Tư mà những người soạn Thiêm phẩm dùng để đối chiếu chưa hẳn đã đúng là Phạn bản mà ngài Cưu-ma-la-thập đã sử dụng.
Do những điểm tồn nghi trong lời tựa của Thiêm phẩm như đã trình bày trên, độ tin cậy của bản soạn lại này dường như cũng không thể vượt qua bản dịch ban đầu của ngài Cưu-ma-la-thập.
Ngoài ra, còn có một điểm khác biệt quan trọng giữa bản dịch của Pháp Hộ với bản dịch của Cưu-ma-la-thập mà Thiêm phẩm không nhắc đến. Đó là trong phần mở đầu, Chánh pháphoa ghi nhận có 1.200 vị tỳ-kheo, trong khi bản Diệu pháp liên hoa ghi là 12.000 vị. Và mặc dù không nêu ra khác biệt này, Thiêm phẩm đã chọn cách giữ lại thông tin theo bản Diệu pháp liên hoa.
Sở dĩ chúng tôi xem đây là khác biệt quan trọng vì có thể tin chắc là ngài Cưu-ma-la-thập đã dịch đúng Phạn bản, và Thiêm phẩm sau khi đối chiếu lại với Phạn bản mà họ có, cũng tiếp tục thừa nhận con số này, tức là 12.000 vị.
Vì Chánh pháp hoa sử dụng một Phạn bản khác, nên chúng ta có thể tin rằng đây không phải là lỗi dịch thuật, mà là sự khác biệt giữa hai Phạn bản. Do vậy, để xác định con số nào là đúng, chúng ta cần xem xét ngay trong nội dung văn bản. Kết quả xem xét cho thấy con số 12.000 không tương hợp với tất cả những vị trí khác trong cùng bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập. Vì khi đề cập đến số lượng các vị A-la-hán thì kinh văn những nơi khác đều ghi là 1.200.
Trước hết, bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập ghi: “cùng với chúng đại tỳ-kheo 12.000 vị, hết thảy đều là bậc A-la-hán”.[47] Như vậy, câu này cho biết cả 12.000 vị “đều là bậc A-la-hán”.
Nhưng trong phẩm Phương tiện nói rằng: “Bấy giờ trong đại chúng có các vị Thanh văn đã chứng A-la-hán, dứt sạch lậu hoặc, giống như ngài A-nhã Kiều-trần-như... cả thảy 1.200 vị.”[48]
Tiếp theo, trong phẩm Thí dụ nói: “Trong số 1.200 vị đạt tâm tự tại ở đây, thuở xưa khi còn ở bậc hữu học…”[49]
Trong thực tế, sau khi rà soát trong toàn bộ kinh văn, chúng tôi tìm thấy có 6 vị trí nêu số lượng các vị A-la-hán và đều nói là 1.200 vị, trong khi đó không có bất kỳ nơi nào khác nhắc lại con số 12.000 như trong đoạn mở đầu. Do vậy, có phần chắc rằng con số này đã bị nhầm lẫn ngay từ trong Phạn bản được ngài Cưu-ma-la-thập sử dụng.
Tóm lại, bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập như được lưu hành hiện nay có khác biệt so với bản lưu hành ban đầu, do những nguyên do đã trình bày ở trên. Khác biệt thứ nhất là được thêm vào (hay trả lại) phẩm Đề-bà-đạt-đa như Pháp hoa văn cú đã giải thích rõ. Khác biệt thứ hai là có thêm phần kệ tụng sau phẩm Phổ môn, có lẽ được lấy từ Thiêm phẩm. Phần kệ tụng thêm vào này làm phong phú thêm cho bản dịch và không ảnh hưởng gì đến những tư tưởng chính được truyền tải trong kinh Pháp hoa.
5. Tư tưởng trong kinh Pháp hoa
Kinh Pháp hoa là bộ kinh được đức Phật thuyết giảng trong giai đoạn về sau, khi cơ duyêncủa thính chúng đã thuần thục. Do vậy, người Phật tử muốn tiếp nhận kinh Pháp hoa cũng cần có sự chuẩn bị học tập, hành trì thích hợp, không chỉ đơn thuần dựa vào việc đọc kinhmà có thể nhận hiểu trọn vẹn được ngay.
Theo hệ thống Ngũ thời bát giáo,[50] tông Thiên Thai xếp kinh Pháp hoa và kinh Đại Bát Niết-bàn vào đệ ngũ thời, tức là giáo pháp được thuyết giảng sau cùng và cũng là rốt ráonhất. Tuy vậy, cách trình bày tư tưởng rốt ráo của Pháp hoa và Đại Bát Niết-bàn không phải hoàn toàn giống nhau.
Trong kinh Pháp hoa, đức Phật dạy: “Chư Phật Thế Tôn chỉ vì duy nhất một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời.”[51]
Và đức Phật giải thích rõ: “Chư Phật Thế Tôn vì muốn giúp chúng sanh khai mở tri kiến Phậtđể được thanh tịnh nên xuất hiện ở đời; muốn chỉ bày cho chúng sanh thấy được tri kiến Phật nên xuất hiện ở đời; muốn khiến cho chúng sanh tỏ ngộ tri kiến Phật nên xuất hiện ở đời; muốn giúp cho chúng sanh thể nhập đạo tri kiến Phật nên xuất hiện ở đời.”[52]
Như vậy, ở đây đề cập đến “tri kiến Phật” tức là sự thấy biết rốt ráo, là trí tuệ vô thượng; cho nên “thể nhập tri kiến Phật” cũng tức là thành Phật. Hay nói ngắn gọn lại, lời dạy này nêu rõ, chư Phật ra đời chỉ vì một mục đích: dạy chúng sanh thành Phật.
Nhưng muốn thành Phật thì trước hết chúng sanh phải tự mình sẵn có khả năng thành Phật. Như người nông dân gieo hạt, trước hết tự thân hạt giống phải sẵn có khả năng nảy mầm. Nếu hạt giống không có khả năng nảy mầm, chẳng hạn như hạt giống hỏng, thì dù có chăm sóc tưới tẩm bao lâu đi nữa, hạt giống ấy cũng không thể mọc lên thành cây. Cũng vậy, chúng sanh phải tự mình sẵn có tiềm năng thì chư Phật ra đời mới có thể dạy chúng sanhthành Phật. Tiềm năng sẵn có để thành Phật được gọi là tánh Phật, và chính vì thế nên Phật dạy trong kinh Đại Bát Niết-bàn rằng “tất cả chúng sanh đều có tánh Phật”, và kinh Pháp hoatiếp tục khẳng định: “Tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật.”
Trong kinh Đại Bát Niết-bàn, đức Phật dạy: “Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật, nhưng vì phiền não che lấp nên không thấy được. Hàng Bồ Tát Thập trụ tuy thấy được pháp cao trổi nhất là tánh Phật, nhưng không biết được Như Lai là pháp thường trụ. Vì vậy nên nói rằng: ‘Hàng Bồ Tát Thập trụ tuy thấy tánh Phật nhưng không thật rõ ràng.’”[53]
Trong kinh Pháp hoa, đức Phật dạy:
“Thậm chí trẻ chơi đùa,
Vun cát làm tháp Phật...
Những trường hợp như thế,
Đều đã thành Phật đạo.”[54]
Lời dạy về tánh Phật trong cả hai kinh đều đúng thật, nhưng với cách trình bày trong kinh Đại Bát Niết-bàn như trên, chúng ta thấy rõ là hướng đến hàng căn cơ nhanh nhạy, vượt trội. Cho đến Bồ Tát Thập trụ mà còn “thấy tánh Phật không thật rõ ràng” thì hạng phàm phucăn cơ thấp kém làm sao có cơ hội được khuyến khích? Trong khi đó, kinh Pháp hoa mở rộng phạm vi đề cập đến bất kỳ nhân lành tu tập nào, một khi đã được thực hiện đều sẽ là nhân dẫn đến việc chúng sanh thành Phật trong tương lai. Thậm chí, chỉ cần biểu lộ sự cung kính Phật bằng cách “niệm một tiếng nam-mô” thì cũng sẽ thành Phật đạo.[55]
Điểm đặc biệt của tư tưởng Pháp hoa chính là ở chỗ dung nhiếp được tất cả chúng sanhvào con đường “học làm Phật” mà chư Phật ra đời để chỉ dạy. Pháp hoa mô tả tiến trình tu tập từ một chúng sanh phàm phu đến quả Phật viên mãn như một con đường dài. Trên con đường đó, có những người tiến bước rất nhanh, có những người chậm chạp lê bước, thậm chí có cả những người thỉnh thoảng phải dừng lại, dậm chân tại chỗ; lại có những người đã đi được rất xa, có người chỉ vừa qua một đoạn ngắn, và cũng có cả những người chỉ mới rụt rè đi những bước đầu tiên, thậm chí có người còn loanh quanh nơi đầu đường quan sát, chưa thực sự bước lên đường.
Bằng cách mô tả như vậy, kinh Pháp hoa không bỏ sót bất kỳ một chúng sanh nào trong phạm vi giáo hóa của Phật, từ những hạng chúng sanh thấp kém tầm thường nhất cho đếnnhững người căn cơ nhanh nhạy, trí tuệ sáng suốt; từ những người chưa phát khởi niềm tinđối với Tam bảo, cho đến hàng Bồ Tát đã đạt giai vị không còn thối chuyển. Tất cả đều cần đến và đều được bình đẳng thọ nhận sự giáo hóa của Phật, không hề phân biệt, giống như cơn mưa lớn tưới đều cho hết thảy cây cỏ, không phân biệt chủng loại hay cao thấp, lớn nhỏ.[56]
Để hiểu rõ tính dung nhiếp của tư tưởng Pháp hoa, cũng cần biết rằng, trước khi Phật thuyếtkinh Pháp hoa thì một số kinh Đại thừa khác cũng đã nêu ra hạn chế của quả vị Thanh vănkhi so sánh với hàng Bồ Tát. Chẳng hạn như trong kinh Duy-ma-cật, những giới hạn của các vị Thanh văn được nêu ra rất rõ. Một số người còn cho rằng kinh Duy-ma-cật bài xích Tiểu thừa khi xem các vị Thanh văn chỉ là “mầm hư giống hỏng”, không thể thành Phật. Tuy nhiên, đây là một cách hiểu nhầm lẫn vì không xét kỹ văn kinh. Trong kinh Duy-ma-cật, ngài Ca-diếp nói với ngài Xá-lợi-phất: “Tại sao chúng ta lại đoạn tuyệt cội gốc của mình đối với Đại thừa, khiến tự mình như hạt giống hư hỏng?”[57] Như vậy, “mầm hư giống hỏng” không phải là lời Phật nói về Thanh văn, mà là lời tự trách của chính các vị. Điều này cũng lặp lại trong kinh Pháp hoa, khi ngài Xá-lợi-phất tự nói: “Chúng con thật đáng trách, sao tự xem thường mình?” Các vị tự trách vì đã không đủ tự tin vào khả năng thành Phật của chính mình, do vậy chỉ dám theo đuổi mục đích giải thoát phiền não của Tiểu thừa, vốn chưa phải là sự giải thoát rốt ráo, giống như người đi trên đường dài, tuy đã đi được xa nhưng thật sự vẫn chưa đến đích. Và đây cũng chính là vấn đề được đức Phật nêu ra và giải quyết rốt ráotrong kinh Pháp hoa.[58]
Về cách nhận hiểu rằng kinh Duy-ma-cật phê phán, bài xích Tiểu thừa, có thể nhắc đến nhận xét của thầy Nhất Hạnh khi giảng kinh Pháp hoa: “Kinh Duy Ma Cật và những kinh Đại Thừa xuất hiện trước đó, đã dùng những quả trọng pháo rất lớn để bắn vào hàng ngũ của những người Thanh văn. Ngược lại, kinh Pháp Hoa là kinh Đại Thừa đầu tiên sử dụng ngôn từ hòa ái, chấp nhận mọi bộ phái và mọi khuynh hướng ở trong đạo Bụt.”[59]
Trong thực tế, tất cả kinh điển mà đức Phật truyền dạy đều sử dụng ngôn từ hòa ái, không có chuyện ngược lại, càng không thể có việc “dùng những quả trọng pháo rất lớn để bắn vào hàng ngũ của những người Thanh văn”. Cách diễn giải này dễ đưa đến sự hiểu lầm rằng các giáo pháp của đức Phật có sự xung đột, mâu thuẫn nhau. Bởi thật ra thì mọi sự so sánhphân biệt để chỉ ra những hạn chế của hàng Thanh văn đều không nhằm phê phán, chỉ trích, mà chỉ là để khuyến khích hướng đến mục đích cuối cùng là quả Phật. Cho nên, đó hoàn toàn không phải là “sự tấn công” vào “những người Thanh văn”, mà nên hiểu là sự chỉ bày chân thật rốt ráo của đức Phật để đưa tất cả chúng sanh đạt đến quả vị Phật. Trong kinh Pháp hoa, mục đích này cuối cùng đã đạt được qua việc đức Phật thụ ký cho tất cả các vị Thanh văn đều sẽ thành Phật. Do vậy, dù là trong kinh Duy-ma-cật hay bất kỳ kinh Đại thừanào khác thì việc chỉ rõ sự chưa rốt ráo của hàng Thanh văn cũng đều là cần thiết và mang tính chỉ bày, khích lệ, hoàn toàn không phải là sự công kích, phỉ báng như trong nhận xétsau đây:
“Trong kinh Duy-Ma-Cật, cái địa vị của Thầy Xá Lợi Phất tồi tệ bao nhiêu thì trong kinh Pháp Hoa cái địa vị của Thầy nó quan trọng bấy nhiêu. Trong Duy-Ma-Cật, đối tượng đó là để nhục mạ, trong kinh Pháp Hoa đối tượng đó là để mà săn sóc, thương yêu, để mà đầu tư giáo pháp vào trong tương lai.”[60]
Kinh Pháp hoa mang đến cho người học Phật một cái nhìn bao quát, một cách nhận hiểu đúng đắn và toàn diện về giáo pháp của đức Phật cũng như tiến trình tu tập. Do vậy, sau khi học kinh Pháp hoa, chúng ta sẽ có một cái nhìn cởi mở và đúng thật hơn đối với những kinh điển khác. Dưới ánh sáng soi rọi của Pháp hoa, chúng ta hiểu được rằng tất cả mọi giáo pháp của đức Phật đều cùng hướng đến một mục đích duy nhất là chỉ bày cho chúng sanhcon đường đạt đến sự giải thoát rốt ráo, thành tựu quả Phật viên mãn. Điều khác biệt ở đây là, kinh Pháp hoa mở rộng phạm vi giáo hóa đến tất cả mọi tầng lớp, mọi khả năng, từ kém cỏi nhất cho đến thông minh sáng suốt nhất. Trong khi đó, kinh Duy-ma-cật hướng đến một nhóm thính chúng có chọn lọc, không phải dành cho tất cả mọi tầng bậc. Do vậy, từ góc độ phàm phu chúng ta sẽ thấy có vẻ như các vị A-la-hán đang bị “nhục mạ” bằng cách phơi bày chỗ thấp kém của họ, nhưng đối với chính bản thân các vị ấy thì thật ra là họ đang được khai mở để nhìn thấy rõ hơn cảnh giới của hàng Bồ Tát, và xa hơn nữa là biết rằng mình cần phải tiếp tục tu tập cho đến khi thành tựu quả Phật viên mãn.
Xét kỹ về điểm này chúng ta mới có thể nhận hiểu và thấy rõ được tính bao quát và trọn vẹncủa tư tưởng trong kinh Pháp hoa.
Nói rằng tư tưởng của Pháp hoa là bao quát, bởi vì Pháp hoa hướng đến mọi đối tượng giáohóa, không loại bỏ bất kỳ tầng lớp nào. Pháp hoa nêu ra “bốn hạng đệ tử có niềm tin”[61] thì trong số đó hầu như hết thảy chúng sanh đều có thể dự phần. Hạng thứ nhất được xác định là những người chỉ cần nghe kinh và phát khởi niềm tin, tương đương với hạng thứ nhất trong năm hạng pháp sư. Năm hạng pháp sư lần lượt chỉ đến những người (1) có thể tin nhận thọ trì kinh, (2) đọc kinh, (3) tụng kinh, (4) sao chép truyền rộng kinh và (5) vì người khác giảng giải kinh. Như vậy, việc phát khởi niềm tin là bước khởi đầu, và điều này không đòi hỏi phải là người có căn cơ vượt trội hay trí tuệ sáng suốt. Thậm chí trong kinh còn đưa ra hình ảnh Bồ Tát Thường Bất Khinh là một tiền thân của đức Phật Thích-ca nhưng chỉ là một vị tỳ-kheo rất bình thường, thậm chí là tầm thường, vì kinh nói rằng “vị tỳ-kheo này không chuyên tụng đọc kinh điển, chỉ thực hành việc lễ bái”.